Những loại bướu giáp không nên mổ?
Theo PGS.TS.BS Nguyễn Hoài Nam - Cố Vấn BV quốc tế Minh Anh: bất cứ ai bị bướu cổ cũng phẫu thuật cắt bướu là việc điều trị không khoa học. Bởi không phải tất cả bướu tuyến giáp đều phải mổ.
Chẳng hạn cường giáp thì không cần phải mổ , những trường hợp bướu lành nhỏ và cũng không bắt buộc mổ . Thậm chí bướu lành to nhưng không gây khó thở, khó nuốt cũng không nên “động dao, động kéo” . Đặc biệt, bướu basedow là bướu cổ do cường chức năng tuyến giáp và gây ra hiện tượng nhiễm độc giáp thì tuyệt đối không được chỉ định phẫu thật . Nhất là những bệnh nhân đang trong đợt nhiễm độc giáp tiến triển. Nếu muốn phẫu thuật cũng phải chuẩn bị chu đáo điều trị nội khoa trước.
Việc phẫu thuật – các bướu cổ lành tính cần cân nhắc thận trọng. Thậm chí để có kết luận chính xác cần kiểm tra ở những cơ sở tin cậy về chuyên môn. Nhiều trường hợp sau phẫu thuật cắt một phần tuyến giáp, do nhu cầu cơ thể đòi hỏi lượng hooc-môn bù đắp nên tuyến giáp phải tái tạo lại và sinh u tiếp. Ngoài ra, bản thân có các u nhân nhỏ không tìm ra sẽ mọc ra nên việc phẫu thuật không có giá trị. Hơn nữa, khi phẫu thuật u lành cắt hết tuyến giáp thì bệnh nhân phải sử dụng thuốc hooc-môn tuyến giáp đến suốt đời.
Khi nào thì cần mổ?
Khi thầy thuốc quyết định điều trị bằng phẫu thuật cũng có nghĩa là bướu giáp có vấn đề nghiêm trọng, mà việc dùng thuốc không hiệu quả.
Các trường hợp cần phải mổ gồm: Bướu lành gây chèn ép khó thở , khó nuốt - do chèn vào đường thở hoặc thòng vào lồng ngực- hoặc lồi ra trước cổ gây mất thẩm mỹ. Trường hợp ung thư hoặc nghi ngờ ung thư - bướu tuyến giáp ác là loại ung thư gây xâm lấn các cơ quan xung quanh, nhất là dây thần kinh hồi thanh quản sẽ gây khàn tiếng, hoặc khi bướu di căn sẽ gây tổn thương gan, phổi, xương, não…
Khi quyết định mổ, thầy thuốc phải tìm hiểu và đánh giá thật chính xác những yếu tố gây nên bướu tuyến giáp. Vì bệnh lý của tuyến giáp, ngoài sự thay đổi về thể tích chúng ta còn gặp những thay đổi về cấu trúc của tuyến giáp. Hiện, bướu tuyến giáp được phân loại theo sự thay đổi về chức năng của tuyến giáp: Bướu giáp với chức năng tuyến giáp bình thường; Bướu giáp với thiểu năng tuyến giáp; Bướu giáp với tăng năng tuyến giáp, còn gọi là cường giáp…Ngoài ra, bướu giáp còn được phân loại theo sự cấu trúc giải phẫu bệnh lý: Đại thể: Bướu giáp lan tỏa, Bướu giáp thể nhân, Bướu giáp hỗn hợp; Vi thể: Bướu giáp nhu mô; Bướu giáp thể nang; Bướu giáp hỗn hợp nang - nhu mô. Trong đó, bướu giáp thể nhân là quan trọng nhất, vì nó có nhiều hình thái biến đổi như: Có thể là một khối u lành tính của tuyến giáp; Có thể là bướu chứa đầy chất keo; Hoặc bướu keo có thoái hóa của biểu mô trong nang tuyến còn gọi là bướu giáp thể nang; Bướu giáp với sự vôi hóa hoặc xơ hóa trong nang tuyến; Bướu giáp chứa đầy máu do xuất huyết trong nang bướu; Bướu giáp ung thư hóa; Bướu giáp thể nhân cường giáp hóa.
Bướu giáp còn được phân loại theo hoàn cảnh phát sinh: Bướu giáp đơn phát; Bướu giáp thể dịch; Bướu giáp thể dịch địa phương…
Việc phân loại trên sẽ giúp các bác sĩ “ nhìn” thấu bệnh , nhất khi thăm khám lâm sàng. Chẳng hạn như Bướu giáp thể nhân và thể nang: Thường thấy lộ rõ dưới da trước cổ, phía bên phải hay bên trái một khối u, nhẵn di động theo thanh quản khi bệnh nhân nuốt; Bướu giáp thể nhu mô lan tỏa: Nổi u to đều một bên hay hai bên cổ với bề mặt tỏa lan ra xung quanh, chân rộng hay hẹp tùy theo mức độ tham gia của một hoặc cả hai thùy tuyến vào quá trình bệnh lý; Bướu giáp hỗn hợp hay đa nang, đa nhân: Nổi lên ở giữa cổ một khối u có nhiều nhân gồ ghề, hình thù và kích thước không đều nhau.
Tuy nhiên không phải bướu giáp cũng được “nhìn” rõ ràng như trên, vì có một số người bướu không lộ rõ ở cổ mà chìm xuống phía sau xương ức. Một số người béo phì, bướu giáp lặn dưới lớp mỡ cổ gây khó khăn cho chẩn đoán. Những bướu giáp quá lớn có thể làm hạn chế cử động của phần cột sống cổ, đặc biệt là động tác gập cổ xuống phía trước.
Bướu giáp có thể “nhìn” và “sờ”
Trong thăm khám lâm sàng, “nhìn” và “ sờ” cũng là một trong những “vũ khí” để xác định rõ ranh giới, mật độ của bướu cũng như vị trí của khí quản so với đường dọc giữa cổ, sự di động của bướu giáp lên phía trên và xuống phía dưới.
PGS.TS. BS Hoài Nam cho biết: nếu sờ thấy bướu có mật độ mềm, sẽ nghĩ đến bướu giáp nhu mô lan tỏa; Mật độ chắc thường thấy trong bướu giáp thể nhân nhu mô; Mật độ cứng với bề mặt gồ ghề thường thấy trong ung thư tuyến giáp; Mật độ căng như có cảm giác căng mọng nước trong bướu cổ thể nang; Mật độ chắc, ấn đau trong bệnh viêm tuyến giáp; Mật độ chắc, mặt nhẵn, ấn không đau, trong bệnh viêm tuyến giáp giả bướu Hashimoto và Riedel. Bướu lớn có thể gây nên các dấu hiệu chèn ép vào các cơ quan và tổ chức xung quanh: Chèn ép khí quản gây khó thở, chèn ép dây thần kinh quặt ngược gây khàn tiến và nuốt sặc, chèn ép bó mạch máu ở cổ gây nhức đầu, mắt kém, rối loạn thần kinh và tâm thần...
Sau khi tiến hành thủ thuật sờ bướu giáp, có thể dùng thước dây đo vòng cổ của bệnh nhân, đo khoảng cách từ cằm tới chuôi xương ức để so sánh kết quả sau mổ.
Những phương pháp xác định bướu lành, bướu độc
Hiện đã nhiều phương tiện giúp việc cho việc xác định rõ bướu lành, bướu độc. Bệnh nhân cũng nên biết, để không thắc mắc nếu gặp những chỉ định của bác sĩ. Cụ thể như: Đo chuyển hóa cơ bản, đo hàm lượng cholesterol trong máu, Thử nghiệm hấp thu iod đồng vị phóng xạ trong 24 giờ, Xạ hình tuyến giáp, Nghiệm pháp Werner,Phương pháp định luợng T.S.H (Thyroid stimulating hoóc-môn) T3 và T4, Siêu âm thường và siêu âm Doppler màu tuyến giáp.
Khi thấy cổ to ra hoặc có các dấu hiệu như : gây kiệt sức, sụt hoặc tăng cân, hồi hộp ở ngực, mất ngủ, rụng tóc, run tay, đổ mồ hôi …hay có bất cứ thay đổi nào trong cơ thể nên đi khám. Bác sĩ sẽ thăm khám, siêu âm, xét nghiệm máu, chọc hút tế bào... để xác định loại bướu cổ. Đặc biệt, khi bướu ác nhỏ sẽ chưa gây ra bất cứ bất thường nào mà chỉ phát hiện được qua siêu âm kiểm tra hoặc tình cờ khi chụp CT, MRI, PET vùng cổ vì bệnh khác. Để phân biệt bướu lành hay bướu ác, chọc hút kim nhỏ (FNA) với độ chính xác cao giúp xác định chẩn đoán. Phương pháp này dùng kim nhỏ như kim chích thuốc, chích vào bướu, lấy tế bào và quan sát dưới kính hiển vi để đánh giá hình dạng và cách sắp xếp của tế bào nhằm có thể xác định lành hay ác.
Nguồn tin: Minh Anh
Ý kiến khác